Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

DÙNG THIẾT BỊ ĐỂ CHỈNH GRAPHIC EQUALIZER MÀ KHÔNG CẦN NGHE TỐT

Cách điều chỉnh equalizer theo như bài tôi đã viết là cách chính qui, bài bản nhất, nhưng cách này đòi hỏi sound-man phải có thẩm âm nghe khá tốt (bẩm sinh hay khổ luyện). Vấn đề này khá hóc búa cho các bạn mới tập vào nghề. Sau đây, tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn một cách khác mà chưa cần tới trình độ nghe cao, nhất là người có tai hơi bị dở (như tôi)(sic).

Thiết bị cần thiết:

& Một Audio Generator (máy phát sóng hạ tần).

& Một Decibel meter (máy đo cường độ AT).

& Hệ thống AT của bạn đang xử dụng, cần điều chỉnh.

Áp dụng lý thuyết cơ bản khi setup AT, tất cả các tín hiệu đầu vào khi khuyếch đại ra loa bắt buộc phải giữ nguyên độ tuyến tính về âm sắc cho tất cả mọi giải tần, vì khi đi qua amplifier và loa chắc chắn nó sẽ bị biến đổi biên độ của mỗi giải ít nhiều.Thiết bị equalizer là để bù đắp những thay đổi đó, chỗ nào thiếu thì nâng lên, thừa thì cắt bớt, theo từng hệ thống AT của bạn mà gia giảm, không có mẫu định trước.

Tùy theo equalizer trong hệ thống của bạn, 15 bands (2/3 octave) hay 31 bands (1/3 octave) mà bạn chỉnh Audio Generator cho đúng 1 tần số bất kỳ nào đó ấn định trên mỗi 15 hay 31 bands của thiết bị. Theo kinh nghiệm của tôi, thì giải lo-mid 630 Hz ít bị gia giảm nhất khi chỉnh equalizer, nên tôi thường lấy làm band mẫu, bạn có thể thử chọn giải tần khác tùy theo hệ thống của bạn..

Bạn đặt máy đo cường độ AT ở vị trí của người nghe tiêu biểu nhất. Đưa tất cả bands của equalizer về vị trí flat (0dB), sau đó bạn cho tín hiệu có tần số 630 Hz vào input của hệ thống AT. Chỉnh cường độ âm lượng phát ra loa lên dần cho đến khi Decibel meter chỉ thị đo được ở khoảng 60dB, có thể lớn hay nhỏ hơn tùy hệ thống AT. Giữ nguyên tất cả fader âm lượng của hệ thống AT và volume của máy phát, bạn chỉnh Audio Generator về tần số band đầu tiên của equalizer, thí dụ 25Hz. Bây giờ bạn lại chỉnh biến trở của band 25Hz này sao cho mức chỉ thị của Decibel meter cũng là trị số 60dB, giống như ở band bạn lấy làm mẫu, ở đây là band 630Hz.

Lập lại thao tác trên cho từng band kế tiếp, nếu EQ 15 bands thông thường sẽ là 40, 63, 100, 160, 250, 400, mẫu 630, 1k, 1k6, 2k5, 4k, 6k3, 10k, 16k Hz. Nếu EQ 31 bands sẽ có thêm những band nằm giữa những trị số này giúp bạn tinh chỉnh hơn.

Thao tác đến đây là hoàn tất, sẽ tốn khá nhiều thời gian của bạn đấy, nếu là EQ 31, 62 bands. Bạn có thể cho hệ thống AT hoạt động bình thường, bạn sẽ nghe được 1 AT khác hoàn toàn trước, hay hơn nhiều ít là do độ chính xác của thiết bị đo lường (Audio Generator, Decibel meter) mà bạn xử dụng. Sau này, khi đã làm nhiều, bạn theo kinh nghiệm của mình mà gia giảm chút ít.

Sẽ có nhiều bạn chưa hoặc không thể trang bị, mượn những thiết bị đo lường như trên. Sẽ sang một cách khác, không dùng thiết bị đo lường nữa, tuy độ chính xác không bằng, nhưng ít tốn xu, chắc sẽ có nhiều bạn sẽ hưởng ứng nhiệt liệt.

Bạn sẽ cần một đĩa CD Multi Audio Bands, mỗi track trong đĩa này phát ra một tần số AT riêng biệt ứng với mỗi band trên equalizer của bạn, với thời lượng ngắn, đủ cho bạn thao tác chỉnh biến trở của EQ. (Đĩa này trên thị trường hình như cũng có bán. Tôi cũng có, nhưng để lâu quá không dùng đã bị hư, tôi đang làm lại đĩa mới, trong vài ngày tới sẽ post update link để các bạn download).

Thiết bị kia là một micro condenser pro loại tuyến tính khá tốt (Shure SM81, BG4.1 v.v), nếu không trang bị được, bạn có thể lấy ngay micro tốt nhất của bạn đang xử dụng cho hệ thống AT cũng được, nhưng chất lượng chỉnh sửa sẽ bị kém đi. Kèm theo micro là một pre-amp có đồng hồ VU (loại chỉ thị bằng kim dễ đọc hơn) như mini mixer chẳng hạn. Chỉ cần cắm micro vào, có tín hiệu AT ở micro, đồng hồ VU dao động là được. Tổng hợp hai loại này là để thay thế Decibel meter trong phần trên. (Nếu mixer của bạn có nhiều loại VU meter, bạn có thể cắm micro vào 1 channel bất kỳ rồi asign channel đó qua tầng out khác (ngoại trừ main out, vì sẽ bị feedback) như aux, FX, group và lấy output VU meter của tầng này làm hiển thị, cũng sẽ có kết quả như ở trên).

Bạn cho đĩa CD vào player, chọn track phát ra tần số mẫu 630Hz, chỉnh âm lượng vừa đủ nghe. Đặt micro ở trung tâm của nguồn AT, chỉnh fader micro cho đồng hồ VU ở 0dB (vừa chạm mức đỏ) và lấy mức này làm mốc. Kế tiếp, cũng như thao tác đã hướng dẫn ở phần trên, bạn chọn từng track có tần số tương ứng và chỉnh biến trở từng band một, tất cả biên độ của âm lượng phải bẳng band mẫu. Có thể bạn phải lập lại những thao tác này vài lần để có kinh nghiệm chỉnh AT chính xác hơn. Với các bạn chưa quen nghe âm sắc, nhân dịp này cũng có thể luyện tai nghe bằng cách phân tích từng tần số, sẽ biết voice nào sẽ nằm ở vị trí band nào trên equalizer. Trường hợp khi chỉnh, AT phát ra bị bể ở giải tần nào đó do amplifier hay loa phát ra, bạn có thể giảm nhẹ giải đó xuống chút ít, tôi sẽ hướng dẫn cắt những tạp âm không thể chấp nhận được này ở một bài viết khác.

Phương pháp trên đây do tôi tự nghĩ ra đã lâu lắm rồi, đã dùng cách này setup nhiều hệ thống, kết quả khá khả quan. Gần đây, do có nghiên cứu thực hành trên một số equalizer hiện đại và nhận thấy nhiều loại cũng ứng dụng phương pháp này, điển hình là EQ digital cao cấp Accuphase DG-28 gọi phương pháp này là Voicing analyzer (phân tích AT) và thao tác chỉnh từng band là compensation (bù), cũng phát ra từng tấn số, chỉ có khác là nó chỉnh từng band tự động và thêm một vài filter. Chính điều này đã khẳng định phương pháp trên của tôi là chính xác, và bây giờ tôi hướng dẫn lại cho các bạn.

Để cho gọn nhẹ hơn khi phải đi setup lưu động, tôi dùng Laptop tích hợp vài software về Audio dùng để phát tín hiệu, micro thì dùng loại rời, cắm thẳng vào sound-card để phân tích và đo âm lượng. Với vài program cài đặt, có thể tự động sửa đổi tính chất của công việc cho chính xác và nhanh hơn Bạn nào có trình độ vi tính khá, có thể tự thực hiện thiết bị này cho cá nhân mình. Mọi thắc mắc khác, các bạn có thể vào forum đặt câu hỏi.




Gần đây, những thiết bị cao cấp của pro-sound đã bắt đầu xuất hiện và có những chức năng đã nói trên.

Đơn giản thì có Pink-noise Generator của Yamaha, thiết bị này giống y như 1 graphic EQ, cũng có những band tương ứng, nhưng thay vì xử lý AT thì nó phát ra AT mẫu như ta đã biết.

Phức tạp hơn thì có DBX Drive rack speaker management model 260 hay PA+ thông dụng ở thị trường VN. Ngoài những chức năng như X-Over, EQ, Compress, Limit nó còn có Pink-noise generator và RTA - Real Time Analyzer. Thiết bị này có ngõ cắm micro (có phantom) và dùng mic này để chỉnh tư động AT live cũng theo phương pháp tôi viết ở trên. Bạn nào có điều kiện nên sắm 1 bộ thử cho biết.

Đã có link download file làm CD Multi-band tại: 

http://www.soundlightingvn.com/FORUM/Am-thanh/Message-558#558

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2014

SO SÁNH: MIXER ANALOG VÀ DIGITAL.

ANALOG so với DIGITAL

Câu hỏi khó, dĩ nhiên, là liệu mixer analog có tốt hơn so với digital. Cá nhân tôi thích những âm thanh của mixer analog, và tôi có thể luôn luôn sẽ vậy. Tuy nhiên, như đã nói, tôi đã xử dụng Midas Pro6 (một mixer digital), và nghĩ rằng nó hoạt động tuyệt vời. Phần EQ cực kỳ chính xác, và phần gain được đáp trả như một mixer analog. Đối với tất cả ý nghĩa và mục đích,là âm thanh (sonically) tuyệt vời và tôi dám nói rằng, nó thực sự có thể là mixer tốt nhất tôi đã từng được nghe.

Câu trả lời cho cái nào tốt hơn, mixer analog hay digital, thực sự phụ thuộc vào bạnmuốn làm gì với nó. Bạn đang tìm kiếm một âm thanh chính xác rất sạch sẽ, hay là bạn muốnmột âm thanh cứng cáp (grittier), hay ấm áp hơn. Đó là về sự lựa chọn sản phẩm phù hợp cho công việc.

Sự khác biệt giữa analog và digital cũng giống như sự khác biệt giữa phim 35 mm vàdisplay độ nét cao (high definition - HD), cả hai đều tuyệt vời và có cái hay riêng của nó. Phim, một số lớp người coi là ấm áp hơn, nó có một chất lượng nhất định, chỉ cần có cái nhìn tốt. Nhưng sau đó chất lượng và chi tiết có liên quan với HD lại có thể hoàn toàn hấp dẫn hơn. Nếu chúng ta đi đến một rạp chiếu phim và xem cùng lúc một bộ phim HD và phim nhựa, chúng ta nên có chất lượng hình ảnh tốt nhất có sẵn. Sẽ có một sự khác biệt, nhưng nó có thể sẽ đi vào những cảnh giới của hương vị, hơn là cái nào thực sự tốt hơn cái nào. Nếu chúng ta xem phim ở nhà trên một TV cũ bằng cách xử dụng bộ phát sóng mặt đất, chất lượng sẽ không chỗ nàođược gần như là tốt. Chất lượng âm thanh của cả hai mixer analog lẫn kỹ thuật số đều dựa theo các thành phần đã xử dụng và các mạch điện được thiết kế. Tất cả về chất lượng của các thiết bị được xử dụng thông qua đường dẫn âm thanh tổng thể, tất cả mọi thứ có thể bị ảnh hưởng từ các thành phần chất lượng kém nhất.

Tôi đã làm việc tại một bữa tiệc ra mắt Brit Awards vào tháng Giêng năm 2010. Nó được tổ chức tại London Indigo2, sân O2, trong đó có một hệ thống PA JBL Vertec PA và một mixer Soundcraft Vi6. Tôi đã từng kết hợp mixer và PA nàytrước đó, và tôi đã luôn luôn nghĩ rằng tôi đã nghe đang xử lý thực tế, không phải đang xử lý dynamic, nhưng thực tế là CPU đang kêu lạo xạo. Tôi biết tiến trìnhđang xảy ra khoảng 96.000 lần mỗi giây, mà dường như chúng ta không thể nghe thấy, có thể là lệch phase trong các bộ filter digital, nhưng đó là cách duy nhất tôi có thể mô tả âm thanh đó. Tôi nghĩ rằng tôi muốn nghe điều này, trước khi PA vàmixer cùng kết hợp tại một điểm khác, và không ai khác có thể nghe nó. Vào thời điểm đó, tôi kết luận rằng tôi sắp bị điên và nghi ngờ rằng thiết bị digital làm đục óc phán đoán của tôi. Tuy nhiên, khi tôi bước vào Indigo2 lại nghe điều tương tự, tôi biết không phải tại tôi. Hệ thống này được đưa vào điểm diễn bởi một người, đã được setup bởi người khác, và được vận hành bởi một người khác nữa nhưng kết quả vẫn giống nhau. Và tôi đã nghe cùng điều này lập đi lập lại là bộ kết hợp này đã bắt đầu được đưa vào nhiều địa điểm trên toàn thế giới. Điểm chính là các sản phẩm này mang lại các hiệu ứng khác nhau cho các sản phẩm khác. Kết hợp hai yếu tố mang lại sai lầm cho nhau rất khó che đậy, và đó là điều tôi đã để ý thấy xảy ra nhiều hơn với mixer digital do độ chính xác của các cần điều khiển.

Mixer Midas Pro6 tại Brixton Academy ở London.

Hãy nhớ rằng chúng ta đã xem xét việc chỉnh cứng hay mềm (focus hard/soft) liên quan đến các hệ thống PA như thế nào? Vâng, điều đó tương tự ở đây. Thiết bị analog đôi khi chỉnhmềm nhiều hơn; nó quay vòng mọi thứ và có thể làm cho âm thanh của chúng ta trở nên tự nhiên hơn. Thiết bị digital có thể chỉnh cứng hơn, có nghĩa là chất lượng âm thanh có thể rất tốt. Bởi vì xử lý bằng digital có thể định lượng các con số, nó có thể cực kì chính xác, trong khi đó các hoạt động của analog đều trên nguyên tắc ước tính hơn, tôi không nói điều này là xấu bởi bất kỳ nghĩa nào.

Rõ ràng, là kỹ sư âm thanh live bắt đầu phát triển, chúng ta cần một mixer điều khiển âm thanh tốt như nó có thể, và rất nhiều âm thanh của mixer xuất phát từ tiền khuyếch đại(preamp). Với preamp chất lượng cao, bạn có thể được một âm thanh tuyệt vời. Thật không may, tôi đã không nghe một preamp digital mà tôi chưa thích, và điều này có rất nhiều để làm với các filter trong bộ chuyển A/D. Ngoài ra còn có một số preamp analog nghe khá xấu, nhưng bạn không bao giờ có thể làm sai với một mixer Midas.

Vấn đề lớn nhất với mixer digital mà xảy ra hết lần này đến lần khác là cách bố trí(layout), khiến bạn có thể suy nghĩ nên học lại cách xử lý mỗi lần bạn lại đằng sau mixer. Hãy suy nghĩ về chuyện lái xe. Khi bạn lần đầu tiên học lái xe, tất cả mọi thứ đã đến lúc bạn chạy quá nhanh mà bạn tự hỏi bạn có thể kiểm soát máy xe như thế nào, nhưng sau đó, bạn đã quen với nó. Mỗi lần bạn tiếp cận một dấu hiệu dừng lại là bạn biết mình phải làm gì, và bạn làm điều đó càng nhiều, bạn ít phải suy nghĩ về nó cho đến khi quá trình suy nghĩ trở thành bản năng. Với một mixer digital, nó sẽ giống như vào một chiếc xe có bàn đạp bị đảo ngược, và các chỉ số và cần gạt nước đã bị chuyển lung tung. Khi bạn tiếp cận cùng một dấu hiệu dừng lại, bạn phải suy nghĩ về những gì bạn đang làm, nếu không nếu bạn sẽ quẹo trái, bạn sẽ bật cần gạt nước lên vàdừng lại trong sân trước của nhà đối diện nhà bạn.

Đối với tôi, việc bố trí digital đòi hỏi các nút nhấn và nhiều menu phải có sự kết hợp khác nhau, để làm thay đổi tiến trình xử lý thành tự nhiên và bản năng đòi hỏi phải tư duy nhiều hơn. Điều này là vì số lượng của nhiều loại bố trí khác nhau mà chúng ta đã từng thực hiện. Vớimixer analog bố trí khá nhiều thứ giống nhau, tiến trình suy nghĩ để nhóm (group) lại với nhau dễ dàng. Nhưng khi bạn được trình bày với bố trí khác mỗi khi bạn bước lên một mixer, có nhiềukhó khăn hơn để làm. Điều đó có thể buộc chúng ta phải xử dụng sự sáng tạo ít đi, mặc dù quacác công cụ, chúng ta có thể làm chính xác hơn.

Ngoài ra, để giảm sự sáng tạo, bố trí phức tạp kết hợp với khả năng phải lưu lại đã khiến một số kỹ sư trở nên lười biếng. Thí dụ, bạn có lẽ nghe một cái gì đó bạn muốn thay đổi, nhưng do mỗi lần bạn điều hướng bố trí để có được cái bạn muốn, thời điểm đó đã qua. Vì vậy, thay vì điều chỉnh, sau đó điều chỉnh lại, bạn không bận tâm nữa. Tương tự, khi bạn tải lênsetup của bạn từ tối hôm trước, bạn có thể nghĩ rằng nó là mọi việc đều đúng cho phòng bạn đang ở trong ngày hôm đó đều tốt, và do đó bạn có thể không cần phải thay đổi bất cứ điều gì.Dĩ nhiên có xu hướng này nếu bạn không có khả năng để soundcheck, bạn vẫn còn có một điểm khởi đầu rất tốt cho show.

Lợi thế lớn nhất mà digital hơn analog, là khả năng lưu các setup của bạn. Bạn không còn bị bắt buộc phải mất thì giờ đánh dấu tất cả các vị trí fader và nút vặn (pot) của bạn sau khisoundcheck, và thiết bị ngoại vi cũng vậy. Quan trọng hơn nữa, bạn có thể tải setup lên chính xác trước khi trình diễn, chứ không phải là thông dịch những gì bạn đã viết ra sau khisoundcheck. Tuy nhiên, bất lợi lớn có liên quan đến phương pháp này là hầu hết các mixer xử dụng đều có kiểu riêng của nó về ngôn ngữ lập trình. Có vài hệ thống mà bạn có thể tải các tập tin chương trình lên từ một mixer khác, nhưng chỉ trong cùng một hệ mixer, bạn vẫn cần phải có tập tin khác cho các hệ thống khác nhau. Sẽ là tuyệt vời nếu có một loại ngôn ngữ lập trình cho tất cả các mixer, nhờ đó chúng ta có thể chuyển các tập tin giữa mỗi mixer, nhưng tôi chưathấy các hãng sản xuất sẽ làm điều này. Bạn có thể làm được âm thanh tốt nhất trên một mixerMidas và sau đó chuyển nó đến một mixer Yamaha. Bạn sẽ không có được những âm thanh tương tự vì sự khác biệt cơ bản giữa quy cách âm thanh của các công ty. Thí dụ, Midas nói rằng: "Bạn có thể overdrive input trên một mixer", trong khi mixer Yamaha là dọc theo line: “bạn không nên overdrive input bởi vì nó sẽ không hoạt động đúng cách ". Bên cạnh những khác biệt cơ bản giữa các hãng sản xuất, tôi chắc chắn phải có một cách tích hợp các tập tin vào một cái gì đó. Rõ ràng, mỗi mixer đều có âm thanh khác nhau, và sẽ có sự khác biệt giữa các âm thanh của các mixer. Tuy nhiên, 2,5 k vẫn còn là 2,5 k, cách bạn xem xét nó như thế nào không thànhvấn đề. Thậm chí, nếu một mixer đặc biệt không có giá trị đó trong hệ thống hồ sơ lưu trữ của nó, tôi đoán chắc chắn là nó sẽ có trong thời gian gần nhất.

Ngay cả trong từng mixer, cách lưu trữ dữ liệu cũng rất phức tạp vì nó xử dụng nhiềuloại hệ thống lưu trữ khác nhau. Các file này có nhiều loại layer, nó có trách nhiệm lưu trữ các phần dữ liệu khác nhau, và bởi vì cách nó lưu trữ dữ liệu này, bạn không thể lưu trữ show của bạn và sau đó gọi lại chỉ một phần của nó. Điều này đưa vào suy nghĩ của bạn trong môi trườngshow lễ hội. Khi bạn bật mixer FOH lên, mở tập tin cho show của bạn và tải nó vào mixer ở đó, rất có thể bạn sẽ xóa tất cả các dữ liệu output mà kỹ thuật viên lễ hội đã thực hiện trước đó,bởi vì bạn phải tải toàn bộ tập tin của bạn vào. Nếu bạn có khả năng chỉ gọi lại các channel, EQS, dynamic, và VCA của bạn mà không ảnh hưởng đến input và các patch output, masterhay matrix của bạn, chúng ta sẽ hạnh phúc. Điều này rõ ràng đã được đưa vào để xem xét bởi rất nhiều hãng sản xuất, bởi vì chúng ta đang bắt đầu xem xét sự hoạt động của vài vấn đề này. Một số mixer có khả năng "an toàn-safe" mà không bị ảnh hưởng bởi thay đổi hiện trường, hay trong một số trường hợp, các tập tin của những show khác nhau. Chúng ta bây giờ cũng xem xét khả năng lưu trữ một số phần nhất định của mixer thành một thư mục "cài đặt trước- preset", nơi bạn có thể lưu một patch, hay một phần output, tải tập tin của bạn lên, và sau đó chỉ cần gọi lại một preset. Điều này làm cho một hệ thống linh hoạt hơn rất nhiều và một có sự hiểu biết phổ quát về lưu trữ và tải các tập tin cho show.

Sự khác biệt chính giữa mixer analog và digital khác là tầm nhìn. Với mixer analog, bạn chỉ có các dải channel để tham khảo, nhưng với digital bạn phải bật sáng màn hình. Trên mộtmixer digital, vị trí màn hình rất nghèo nàn, có nghĩa là, nó nằm ngay trước mặt bạn và có thểlàm bạn mất tập trung. Vài kỹ sư đã quen dần chuyện bị bắt gặp đang mầy mò các plugin hơn là mix show. Ngoài ra, do có một đồ thị tần số EQ trên mỗi channel, bạn có thể đôi khi thấy mình đang nhìn những gì bạn đang nghe, hơn là lắng nghe những gì bạn đang nghe.

Vài năm trước, tôi đã ở Aberdeen làm việc với Welsh của nhóm rap Goldie Lookin Chain. Tôi đã ở một đầu của cable snake, làm việc hệ thống monitor, trong khi kỹ sư xử dụng mixer FOH (Midas H3000). Mọi thứ đều tốt, cho đến khi show qua nửa chừng, một pint bia hạ cánh trên mixer. Nếu đây là một mixer digital, chúng tôi đã có vấn đề, nhưng, bởi vì chúng tôi đang xử dụng một hệ thống analog, chúng tôi đã có thể cứu vãn tình thế. Với các channel bị đẫm trong bia, chúng tôi rútjack XLR ra khỏi mixer và cắm chúng vào các channel còn lại không bị ẩm, thế là đã cứu được buổi biểu diễn. Trong khi tiếp tục trình diễn, mở vít các dải channel của mixer, lôi ra và làm khô càng nhiều càng tốt bằng khăn giấy (để giảm thiểu thiệt hại của lớp bảng mạch bị phủ bia làm xói mòn các mạch). Một số trở nên sạch hơn và sau đó chà xát lại thật kỹ, và các channel sẵn sàng để xử dụng nhiều lần nữa. Điều này không thực hiện được trên mixer digital bởi vì không thể gỡ bỏ riêng từng channel.

Mixer digital không có nhiều âm thanh chạy qua nó, nó chỉ thao tác âm thanh đi vào các bộ xử lý tín hiệu ngoại vi, ngay cả khi mixer có input ở mặt sau, âm thanh vẫn không chạy qua số lượng các mạch đó như trong một mixer analog. Ngoài ra, vì bộ chuyển đổi D/A và A/D chỉ thao tác dữ liệu, không phải tín hiệu thực tế, nên nó không thêm bất kỳ tiếng noise nào vàođường dẫn tín hiệu (như mixer analog), trừ khi bạn có thêm một phần bên ngoài là thiết bị analog. Hầu hết, mixer digital sẽ có một cable đa lõi (multicore) digital, có nghĩa là âm thanh analog có thể ở trên sân khấu. Như vậy, mixer của bạn chỉ là một mặt người xử dụng điều khiển âm thanh digital hóa, trong khi các hệ thống analog gửi âm thanh sang mixer, gửi tín hiệu qua mixer và bất cứ thiết bị ngoại vi nào bạn đang xử dụng, và sau đó gửi nó trở lại đến ampli.Khi thực hiện bằng analog sẽ xử dụng rất nhiều dây cable, vì vậy bạn sẽ có thêm nhiều thứkhông chỉ mỗi tiếng noise, nhưng sức đề kháng của cable thường là tốt.

Điều buồn cười là với tất cả những ưu điểm mà bạn có được với mixer digital, đó cũng là những vấn đề cơ bản để nó tốt hơn. Bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ các tính năng này trên mộtmixer analog (những cái như scene scope, lưu trữ, và nút undo). Mixer digital có thể tuyệt vời, nhưng nó đã làm cho nửa đời sống của một kỹ sư trở nên phức tạp hơn.

Tất cả những lợi thế và bất lợi cơ bản là các yếu tố chi phí liên quan đến mixer. Tất cả mọi cái đều đi đến vấn đề ngân sách, và mixer digital cung cấp tính linh hoạt lớn hơn, footprintnhỏ hơn nhiều, và một giá rẻ hơn rất nhiều. Trên mỗi channel đều có dynamic, cũng như bộ EQgraphic nội tại và hiệu ứng, sẽ cắt giảm chi phí cần thêm rack máy và các thiết bị trong đó.

Nguồn : Sound & Lighting VN

NGUỒN PHANTOM CHO MICRO CONDENSER.

Ở bất cứ pro mixer thông dụng nào hiện nay, những ngã input cũng tích hợp thêm 1 nguồn cung cấp điện áp 48VDC cho chủng loại micro condenser gọi là nguồn Phantom. Mixer cao cấp thì mỗi channel đều có 1 switch on-off nguồn này, loại thấp hơn thì đơn giản hóa, chỉ có 1 switch chung cho tất cả những input. Bởi thế, có rất nhiều bạn nêu thắc mắc: khi xử dụng micro dynamic, nếu quên tắt nguồn phantom, hay dùng chung micro condenser với micro dynamic mà mixer chỉ có 1 switch thỉ có ảnh hưởng gì tới micro dynamic không? Cuộn dây trong micro rất mảnh, nguồn 48 V có thể làm hư nó không? Sau đây là lời giải đáp:

Trước hết giải nghĩa về cấu tạo của micro condenser (tụ điện), nó là 2 màng mỏng kim loại ghép chặt vào nhau, giữa là 1 lớp cách điện. Lúc này nó là cấu hình của 1 cái tụ điện đơn giản. Khi có AT tác động vào màng, sẽ làm thay đổi điện dung của nó. Sự biến thiên điện dung theo cường độ AT này sẽ được kỹ thuật điện tử tách ra, khuếch đại thành tín hiệu AT như 1 micro dynamic thông thường. Vài chục năm trước, khi chưa có công nghệ bán dẫn FET, bộ khuếch đại này phải làm bằng bóng đèn điện tử loại nhỏ (miniature) vì tổng trở của của bộ màng thu âm rất cao. Vì vậy, những micro này thường kèm theo 1 bộ cung cấp nguồn (power supply, adapter) phức tạp và cồng kềnh. Sau này nó được đơn giản hóa để có thể bỏ gọn vào cán micro được, tới mức chỉ cần 1 con FET thật nhỏ gắn ngay sau màng và chỉ cần 1 nguồn điện cung cấp 1,5 VDC như pin AAA là đủ (micro cúc áo).

Nhưng dù là gì đi chăng nữa, mỗi micro đều cần 1 nguồn cung cấp điện thế cho riêng nó (loại dùng pin 1,5 V không đủ tiêu chuẩn pro). Chẳng lẽ mỗi micro đều kèm theo 1 adaptor hay sao? Quá phức tạp khi xử dụng nhiều mic 1 lúc. Đến đây thì công nghệ mixer với nguồn phantom ra đời. Pro Mixer, ngã input bằng jack XLR3 được tích hợp thêm bộ cung cấp nguồn DC ở 2 pin 2 và 3. Hiệu điện thế là từ 12 => 48VDC. Thông dụng nhất là 48V vì dòng tiêu thụ sẽ nhỏ hơn 4 lần và bộ ổn áp cấp cho bộ khuếch đại micro sẽ làm việc tốt hơn, ít nhiễu hơn. Điện áp 48VDC được phân bố chính xác trên pin 2 và 3 của micro và lấy pin 1 làm mass (shield). Bởi thế, không có 1 hiệu điện thế nào giữa pin 2 va 3 cả nên khi ta cắm micro dynamic balance thông thường vào, hoàn toàn không có tác động nào vào tín hiệu AT, và màng micro (diaphragm) nối giữa pin 2 và 3 trước khi vào transfomer hay op-amp của mixer.

Kết luận: rất an toàn khi bạn cắm micro dynamic balance vào input mixer đã có nguồn phantom. Nhưng có 1 điều tối kỵ: không được xử dụng micro dynamic unbalance trong trường hợp này, pin 3 của loại micro này được nối với mass (pin 1) và micro sẽ chịu điện áp 48VDC trực tiếp, kết quả là … Thôi thì, các bạn nên tắt nguồn phantom khi không xử dụng micro condenser nữa cho yên cái bụng là xong.

Hình: Nguồn phantom cung cấp bởi mixer
Tiện đây, tôi nói thêm về loại micro electret (từ này là chuyên dùng, không dịch được). Micro electret là loại micro condenser có tích hợp thêm bộ phân cực bán dẫn ngay trong micro, dùng nguồn phantom và 1 loại nữa được phân cực bên ngoài micro, có thêm bộ nguồn rời, thường được gọi là true condenser. Cũng có micro tích hợp cả 2 loại này. Nhưng khi người ta gọi "micro condenser", điều đó có nghĩa là "microphone condenser electret". Có thể nói, 95% của micro condenser trên thị trường là loại electret (theo Shure).

ÂM THANH NHÀ THỜ, NHỮNG ĐỊNH KIẾN.

Sau khi biên dịch và đăng tải toàn bộ cuốn Hệ thống âm thanh nhà thờ của tác giả Joseph De Buglio lên website, tôi đã có dịp tham quan và nghiên cứu về kỹ thuật âm thanh cho một số nhà thờ ở SG và vài tỉnh lân cận.

Có lẽ bạn đã biết, hầu hết nhà thờ ở VN đều có cấu trúc xây dựng gần giống nhau. Tất cả đều hình chữ nhật, ít hay không có cột chống, có trần rất cao >8m, kích cỡ trung bình, có thể chứa từ 500 – 1000 người. Cho dù hầu hết đều không quan tâm đến phần tính âm (acoustic) khi xây dựng, nhưng nhờ có rất nhiều cửa lớn đều mở rộng khi có người, nên khả năng dội âm nằm trong phạm vi chấp nhận được (tôi đã đo RT60 khi phòng trống, thường <2 giây). Đây là những điều kiện gần đạt lý tưởng để thiết kế hệ thống âm thanh có cụm loa đơn (single cluster speaker). Tất cả chuyên gia về âm thanh đều công nhận loại hệ thống này rất tuyệt vời khi khuếch đại tiếng nói. Dưới đây là trích đoạn chương 11 cuốn Giáo trình âm thanh của Scott Hunter Stark nói về hệ thống này. Muốn hiểu rõ hơn, bạn hãy đọc thêm sách của J D Buglio đã giới thiệu bên trên.

(Khi cần mức độ rõ cao, cụm loa đơn có khuynh hướng hấp dẫn nhất nếu đánh giá về cách phát âm một mình rõ ràng. Nó cung cấp những âm thanh rõ nhất cho hầu hết khán giả. Dĩ nhiên phải có hoàn cảnh cho phép thực hiện hiệu quả sự sắp xếp như vậy. Nói chung, thực chất chuyện này là để có cơ hội xử dụng hệ thống tương đối lâu dài, hay ít nhất là cơ hội để dựng lên giàn giáo tử hình (scaffold) cho vài loại khác. Đồng thời, cấu trúc vật lý của phòng phải cho phép có vị trí loa phù hợp; có thể loại bỏ sự sắp xếp như vậy ngay lập tức nếu có trần nhà thấp hay những hạn chế vật lý khác.

Thiết lập hướng tỏa ra âm thanh thật rõ phải khôn khéo, nhưng vẫn phải có những xem xét quan trọng. Khi sự truyền đạt hiệu quả là mục tiêu chính trong pro sound, sẽ có cảm giác hiện thực rằng âm thanh đến từ hướng gần đúng chỗ diễn giả, có thể làm bài diễn giảng của người trình bày rõ hơn rất nhiều. Xử dụng một cụm loa đơn đặt trên đầu bục giảng nhà thờ, bục diễn thuyết có thể vay mượn mạnh mẽ hiệu ứng này. Trong cài đặt cố định, có thể treo nó lên (suspend) an toàn, hay nếu không thì nâng cụm loa ở độ cao đủ quan trọng để giảm thiểu vấn đề tiềm năng bị feedback. Từ hướng nghe được tương đối ít nhạy trong mặt phẳng dọc (chương 3), sự khác biệt theo chiều dọc tương đối rất nhỏ. Kết quả, khi kết hợp với hình ảnh thị giác của diễn giả, ảo tưởng thường nhìn nhận, âm thanh nghe thấy phát ra từ diễn giả, hơn từ vị trí thật tế của cụm loa này. Nhưng, cụm loa như vậy phải có khả năng đem âm thanh tới cho phần lớn khán giả, hay nó sẽ tự gây trắc trở để phải lo lắng về hướng phát rõ của âm thanh ban đầu, từ quan điểm của khán giả. Nếu túi tiền cho phép, cũng có thể triển khai một hệ thống phân phối delay theo cách sao cho bảo tồn được hình ảnh âm thanh bắt nguồn từ vị trí của diễn giả.

Có lẽ, lý lẽ biện minh quan trọng nhất cho việc dùng cụm (cluster) loa đơn có liên quan tới sự triệt tiêu giao thoa (những hiệu ứng lọc lược đã đề cập nhiều lần trong suốt giáo trình này) gây ra bởi hai hay nhiều mô hình sóng tương tác với nhau. Có khuynh hướng không xảy ra điều này với bất kỳ mức độ lớn nào khi dùng cụm loa đơn đã thiết kế tốt, và từ quan điểm âm học, cụm loa đơn chắc chắn là lựa chọn để tăng cường cho tiếng nói được mọi người ưa thích nhất. Dĩ nhiên, một cụm đơn có thể không bao phủ số lượng lớn khán giả thật hiệu quả, và hệ thống delay nằm ngoài giới hạn tiền bạc, khi phải xử dụng hai hay nhiều vị trí loa, và lược lọc (comp-filtering) chỉ chấp nhận đơn giản như là một sự thỏa hiệp phù hợp. Trong thật tế, thỏa hiệp này không phải luôn bức thiết, ngoại trừ ở những tần số thấp)…

Như vậy đã rõ, về mặt kỹ thuật, hệ thống này đã đáp ứng toàn bộ yêu cầu âm thanh cho nhà thờ ở VN. Về kinh tế, đây là hệ thống có kinh phí thấp nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay. Việc lắp đặt đơn giản, chỉ đi dây loa tới một vị trí, thay vì hàng chục vị trí nếu xử dụng hệ thống rải loa phổ biến. Bạn chỉ cần xử dụng một cặp loa full-range 40cm (15”), thậm chí, nếu dưới 500 chỗ ngồi thì một cái thôi cũng đủ bao quát. Nếu nhà thờ khá dài, cần thêm cụm far-field, hiện nay giá thiết bị AT delay khá rẻ, bạn không cần lo nghĩ về vấn đề này.

Nhưng, khi tôi đưa hệ thống này vào thiết kế AT cho nhà thờ thì gặp phải thái độ thờ ơ hay lắc đầu dứt khoát của ban quản trị nhà thờ, buộc lòng tôi phải thiết kế lại theo kiểu cũ. Thắc mắc, tôi đã đặt vấn đề này với vài người bạn cùng nghề và nhận được câu trả lời thật bất ngờ: Hệ thống này thường xử dụng cho nhà thờ Tin Lành nên nhà thờ Thiên Chúa không được dùng, và cũng không ai biết quy định này xuất phát từ đâu. Có người còn nói lý do khác, không được đặt bất cứ vật gì cao hơn tượng thờ. Thật kỳ lạ, thiết bị âm thanh điện tử là vật vô tri vô giác, sao lại gán tính cách phân biệt cho nó như vậy.

Là người ngoại đạo, với suy nghĩ thật khách quan, theo tôi, lúc đầu có lẽ có vài người nào đó, vì không muốn làm hệ thống cụm đơn hay muốn bán hệ thống khác có giá thật cao nên đồn đại ra vậy. Rồi sau đó, theo hiệu ứng dây chuyền, nhà thờ này nhìn nhà thờ khác và tất cả đều theo lối mòn. Tôi không nói hệ thống rải loa là dở, còn nói hay nữa là đằng khác, nhưng nó đòi hỏi phải bỏ công sức thiết kế kỹ thuật rất tinh vi, phải tính toán cả vấn đề tính âm (acoustic) của nhà thờ thật kỹ, điều này ở VN ta thường thiếu hay không có. Và khi lắp ráp, cài đặt thì thường làm qua loa, chỉ mong sao xong sớm để được thanh toán. Vì vậy, việc nhà thờ chi ra kinh phí khá lớn cho nhiều thiết bị loa thành ra vô nghĩa, đáng lẽ để dành vào những thiết bị khác hợp lý thiết thực hơn.

Tôi đã thu thập thông tin và được biết, rất nhiều nhà thờ của cộng đồng người Việt ở ngoại quốc đều xử dụng hệ thống cụm loa đơn này. Họ còn có cách giấu hệ thống loa sao cho không ai có thể biết nó đặt ở đâu, cho ảo tưởng âm thanh phát ra từ người đang nói. Tóm lại, có thể nói, những định kiến trên chỉ có ở VN. Phàm cái gì do con người đặt ra thì con người cũng có thể xóa bỏ. Là người kỹ thuật thuần túy, tôi chỉ biết trình bày đôi lời như thế thôi, việc còn lại là của các bạn …

BIẾN THẾ (TRANSFORMER) CỦA AMPLI ĐÈN.

Biến thế của ampli đèn thường có 3 loại : Biến thế nguồn (power supply transformer) (transfor aliment), cuộn lọc điện 1 chiều (DC choke) và biến thế xuất âm (output transfomer) (transfor sortie).

-Biến thế nguồn : Cung cấp nhiều loại điện áp AC cho ampli đèn từ điện lưới hạ thế. Công suất của biến thế được tính theo công thức gần đúng : P = S x S trong đó S là tiết diện của lõi từ E I tính bằng cm². Nên chọn biến thế có công suất ít nhất gấp đôi công suất của âm thanh. Các cuộn dây có hiệu điện thế như sau :

Sơ cấp (primary) : 110v, 220v.

Thứ cấp (secondary) : Cuộn cao thế 300v x 2, có thể cao đến 450v tùy theo loại đèn công suất. Hai cuộn đốt tim bóng đèn (filament), 1 cuộn 5v cho đèn chỉnh lưu và 1 cuộn 6,3v cho tất cả đèn còn lại. Cuộn 5v phải được cách ly thật tốt với các cuộn khác vì đây là đường ra của điện cao thế sau khi chỉnh lưu. Dĩ nhiên tất cả dòng ra phải phù hợp với tất cả hệ thống (sẽ nêu rõ sau).



-Cuộn lọc điện 1 chiều : Loại này rất đơn giản, chỉ có 1 cuộn dây độc nhất với lõi từ vài cm². nó dùng để lọc sạch dòng điện DC trước khi cung cấp cho bóng đèn.
- Biến thế xuất âm : Biến thế này quan trọng nhất đối với ampli đèn vì nó ảnh hưởng tới chất lượng âm thanh phát ra. Nhiệm vụ của nó là biến đổi tổng trở của cặp đèn công suất push-pull khoảng trên 5KΩ thành 4, 8, và 16Ω cho phù hợp với loa tải. Ở nước ngoài, quấn bằng máy chính xác, lõi từ tốt lớn hơn 14.000 gausse, họ thường quấn chỉ có 2 cuộn sơ cấp. Trên thực tế, ta phải quấn theo kiểu “sandwich”, chia cuộn sơ cấp thành nhiều cuộn có số vòng dây giống nhau, rồi đấu nối tiếp những cuộn này lại thành 2 cuộn với mỗi cuộn một lớp chẵn, lẻ khác nhau. Làm sao cho mỗi cuộn đều có số vòng và chiều dài giống nhau.


Vì hoạt động với điện thế DC rất cao nên những biến thế dùng cho ampli đèn đều phải quấn dây rất kỹ, giữa mỗi lớp dây phải lót lớp giấy cách điện mỏng thật tốt. Những bài sau, tùy loại đèn cụ thể, tôi sẽ đưa những thông số kỹ thuật để các bạn khéo tay cũng có thể tự mình thực hiện được.

Tuyên Phúc.
Nguồn : Sound & Lighting VN

NHỮNG LINH KIỆN (PART) DÙNG TRONG AMPLI ĐÈN RES

Bài viết này sẽ đề cập tới những linh kiện bắt buộc phải có để lắp ráp ampli đèn Hi Fi. Không như những hãng sản xuất Hi-end đòi hỏi phải có những linh kiện cao cấp dùng những chất liệu không tưởng như vàng, bạc, bạch kim hay còn cả titan gì gì nữa. Bạn nên nhớ, chất lượng của sản phẩm tạo ra tùy thuộc vào linh kiện nào có chất lượng thấp nhất chứ không phải cao nhất (nguyên lý thùng gỗ đựng nước). Chỉ cần chọn linh kiện đúng chủng loại, đồng chất lượng, đúng trị số và không hư hỏng là được.

Tụ điện (Capacitor) :

-Tụ hóa lọc nguồn : thường khoảng vài trăm µF với điện thế 450VDC. Đôi khi, có những biến thế có điện thế cao trên 600V, phải nối tiếp 2 tụ với 2 điện trở làm cầu cân bằng điện thế. Trung bình, mỗi ampli cần khoảng 4 tầng lọc như vậy.

Trong ampli đèn, tụ hóa thường tích hợp 2, 3 con trong 1 tụ để giảm thiểu sự choán chỗ.




-Tụ liên lạc (signal capacitor): dẫn truyền tín hiệu AT từ tầng này qua tầng khác. Chủng loại này là tụ cuộn giấy trong dầu (foil paper in oil). Loại này cũng phải chịu điện thế rất cao, nên chọn loại tối thiểu 400VDC, cao hơn càng tốt. Điện dung tùy mạch điện, dao động từ 0.01 µF đến 0.47 µF. Tụ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng AT nên phải tuyệt đối không bị rò rỉ. Hãng sản xuất thông dụng trước đây là Phillip, Mallory, National v.v còn bây giờ có rất nhiều hiệu sản xuất tụ chuyên dùng cho ampli đèn.





Cách đo thử tụ xem còn tốt không rất đơn giản. Bạn áp hai cực của tụ vào điện nguồn DC của ampli đèn rồi lấy ra, đợi khoảng vài phút thì nối tắt 2 cực, nếu tụ còn tốt sẽ có tia lửa mạnh phát ra. Nếu không nối tắt thì đo điện thế với volt kế có nội trở cao (>10MΩ), nếu chỉ suy giảm dưới 20% so với điện thế nguồn là được.

Điện trở (resistor) : Điện trở trong ampli đèn thường sử dụng loại cao cấp. Công suất nhỏ nhất là ½ watt cho đến vài watts. Chân ra phải thật cứng để có thể chịu dao động.



Biến trở (Potentiometer) : Biến trở loại lớn, chính xác. Nên dùng loại A biến thiên theo tuyến tính (analog), không dùng loại B biến thiên theo log e. Tổng trở ampli đèn cao nên thông số biến trở sử dụng cũng cao, tư 100KΩ tới 1MΩ.


Trạm nối dây (connector) : Ampli đèn ít khi sử dụng bảng mạch in. Tất cả các linh kiện đều gắn trên những trạm rồi dùng dây đồng nối lại với nhau. Đôi khi linh kiện còn gắn trực tiếp trên chân đèn, chân tụ hóa để giảm thiểu độ dài dây nối. Nếu chassis của bạn làm bằng nhôm, không hàn xuống mass được, phải có thêm nhiều trạm mass.





Phần cuối cùng là vỏ máy (chassis), chất liệu là nhôm, sắt thế nào cũng được nhưng phải cứng cáp vì phải đục nhiều lỗ lớn trên nó. Mẫu mã, kích thước thì tùy bạn tính toán. Đôi khi ở chỗ bán ve chai, đồng nát bạn cũng có thể tìm được chassis của một thiết bị điện, điện tử nào đó có thể dùng làm ampli đèn rất tuyệt vời. Bạn làm chỉ 1 bộ thôi thì cứ như vậy, trừ khi có ý định sản xuất hàng loạt thì không kể.




Đến đây, qua những bài viết, bạn đã có những khái niệm về những thiết bị, linh kiện để làm 1 ampli đèn HiFi. Trong những bài sắp tới, sẽ sang phần thực hành ráp một ampli thông dụng và hiệu quả, bạn sẽ thấy rất dễ thực hiện. Nếu bạn ở Sài Gòn, tôi sẽ hướng dẫn những chỗ mua linh kiện, quấn biến áp chất lượng và giá cả cực kỳ phải chăng. Nào cùng nhào dzô làm một ampli đèn cho riêng mình nhé.

Nguồn : Sound & Lighting VN

TỰ LẮP RÁP AMPLI ĐÈN (DIY YOUR TUBE AMPLIFIER) (4) CÂN CHỈNH

Những thao tác cơ bản cân chỉnh tổng quát sau khi lắp ráp tube-amp.

Qua những bài viết trước, tôi đã hướng dẫn các bạn một số thủ thuật để lắp ráp tube-amp. Nhưng khi đã thực hiện xong, bạn sẽ bị đứng trước một vấn đề khá nan giải là: ‘Làm sao để khởi động amp một cách suôn sẻ và hợp lý nhất?” Vấn đề này không chỉ đơn giản là cắm tất cả đèn, câu loa và bật công tắc cho amp chạy. Nếu có sơ sót gì trong quá trình lắp ráp, bạn có thể làm amp hư hỏng không đáng có ngay tại thời điểm này. Sau đây là những hướng dẫn thao tác cơ bản từng bước để kiểm tra và khởi động tube-amp:

1/ Chưa cắm bất kỳ đèn nào, dùng cán tua vít gõ nhẹ vào những mối hàn để kiểm tra độ chắc của mối nối.

2/ Cắm đèn nắn điện vào (nếu nắn bằng diod thì bỏ qua thao tác này). Gài dây đo của đồng hồ volt (dùng đồng hồ loại hiển thị bằng kim tốt hơn loại digital) vào amp, dây đen nối xuống mass, dây đỏ nối (kẹp) vào đầu tụ lọc đầu tiên (điểm nối với ngã ra V+ của diod hay đèn nắn điện), thang đo của đồng hồ đặt ở vị trí 500 => 1000VDC. Nối dây nguồn, bật công tắc nguồn lên rồi tắt ngay (nếu dùng đèn nắn đợi khoảng 10 giây, khi volt kế lên có điện thế cực đại rồi tắt công tắc). Điện thế hiển thị bắt buộc phải giữ nguyên hay xuống rất chậm, nếu tụt nhanh hay mất hẳn là mạch lọc nguồn có vấn đề, chạm mass hay tụ lọc bị rỉ, ngược đầu v.v. Bạn phải tìm ra chỗ sai, sửa cho hết tình trạng này rồi thử lại nhiều lần rồi mới sang được bước kế tiếp.

Tiện đây cũng nói thêm, điện trở 100k => 220k / 1w đấu song song với 2 tụ lọc nguồn khi nối tiếp có công dụng là làm cân bằng điện thế đều giữa 2 tụ, Nếu không có những điện trở này, khi có 1 tụ bị rỉ nhiều hơn, nó sẽ làm giảm điện thế áp trên nó và dĩ nhiên tụ còn lại mắc nối tiếp với nó sẽ gánh phần điện thế còn lại, quá sức chịu đựng của nó, sinh ra nổ tụ. Nó còn có tác động nữa là khi tắt amp, điện thế chứa trong tụ sẽ đi xuống mass và giảm volt dần. Điều này làm một số bạn gọi nó là “điện trở xả tụ”, không đúng với chức năng chính của nó. Có bạn còn đặt ra phải dùng điện trở loại này, hiệu kia mới tốt. Tôi sẽ viết 1 bài về những sự ngộ nhận về linh kiện tube-amp này vào 1 bài khác sắp tới.

Bạn cũng cần lắp ráp thêm 1 công tắc nữa để cắt nguồn DC nếu có thể, gọi là công tắc stanby (chế độ chờ). Khi nắn điện bằng diod, điện thế DC sẽ lên tới cao điểm ngay tức thì rồi qua cuộn shock và những điện trở dẫn tới những tầng cấp điện khác có điện thế nhỏ hơn, đôi khi sẽ được lọc bằng tụ lọc có điện thế chịu đựng nhỏ hơn điện thế nguồn chính (tụ điện thế cao thường khá mắc tiền, lớn choán chỗ nên nhà sản xuất thường làm tụ volt thấp cho các tầng pre thấp volt). Thời điểm đầu này, bóng đèn chưa đủ thời gian nung tim đèn nóng đến mức độ cần thiết (cần khoảng 15 đến 20 giây) để hoạt động, nên chưa có dòng tải để kéo điện thế xuống qua điện trở giảm. Hậu quả là có thể nổ tụ, đôi khi những bóng đèn pre có sức chịu kém cũng có thể nhảy lửa và nổ nguội. Khi có công tắc standby, bạn bật công tắc nguồn, đợi 20 giây sau bật công tắc standby, amp sẽ hoạt động tức thì và ổn định hơn. Công tắc này bạn gắn ở giữa điểm tụ lọc nguồn đầu tiên và tiếp tế điện nguồn cho shock và những tầng sau. Mạch điện dùng đèn nắn điện có thể không cần công tắc này vì điện thế cũng lên từ từ đồng bộ với những đèn khác, nhưng lại có thể hữu ích cho những thao tác cân chỉnh tôi sẽ viết sau đây.

3/ Nếu sơ đồ bạn đang ráp có dùng điện thế bias (phân cực) V- cho đèn thì bạn phải chỉnh điện thế này cho đúng theo sơ đồ. Nếu muốn an toàn hơn, bạn có thể chỉnh cao hơn khoảng 20% so với sơ đồ. Đo những điện thế AC dùng để đốt tim đèn xem có đúng với từng loại đèn không, sai số cho phép là 10%.

4/ Đến bước này, bạn đã có thể cắm tất cả bóng đèn theo như trong sơ đồ amp của bạn đang lắp ráp nếu là amp mono. Nếu bạn ráp amp stereo, bạn chỉ nên cắm số lượng đèn đủ cho 1 bên channel mà thôi. Khi nào 1 channel đã hoàn thành cân chỉnh chạy tốt, ổn định, bạn sẽ cắm tất cả đèn sau.

5/ Thông thường, bây giờ bạn có thể gắn loa tải đúng trở kháng của OPT vào, cho tín hiệu nhạc và cho chạy bình thường như tất cả các amp bất kỳ nào. Nhưng mục đích của bài này là cân chỉnh amp cho đạt được độ chính xác tương đối, nên bạn cần làm thêm những việc sau:

Thay vì gắn loa, bạn mắc ở tải OPT bằng 1 hay nhiều điện trở dây quấn loại lớn watt sao cho tổng trở của nó bằng 8Ω (hơi khó kiếm đúng trị số, nếu không có bạn cho thành 10Ω cũng được, nhưng sau này sẽ khó tính công suất), tổng công suất trở > 50watt (càng lớn càng tốt).

Song song với điện trở này, bạn nối với ngã input của 1 osciloscope (máy hiện sóng) hạ tần (loại nào cũng được, miễn sao màn hình còn tốt). Ở ngã input của ampli, bạn nối với ngã output của 1 audio generator (máy phát sóng hạ tần). Nếu không có thiết bị này, bạn có thể dùng 1 CD player rồi vào forum của website này, box âm thanh download file multi-band CD làm thành đĩa CD để xử dụng, tính năng cũng tương tự như máy phát sóng.

Biến trở âm lượng ngã vào của amp set vị trí minimum, máy phát sóng hay CD set ở tần số 1KHz, biên độ 0dB (tương đương 1 VAC), nếu dùng CD thì không cần chỉnh. Bật công tắc nguồn, đợi khoảng 20 giây cho tim đèn nóng đều, mắt nhìn osciloscope, bật công tắc standby, tay từ từ vặn biến trở âm lượng lên. Nếu trên màn hình xuất hiện 1 hình sine tròn trĩnh như hình mẫu, biên độ thay đổi theo tỉ lệ biến trở bạn đang vặn thì nó đang chứng tỏ amp của bạn đang hoạt động tương đối tốt rồi. Nếu xuất hiện hình quái dị, không phải hình sine thì amp của bạn đã có trục trặc, sai sót ở đâu đó. Bạn dùng que đo của osciloscope để kiểm tra từng tầng khuếch đại, bắt đầu từ ngã ra tín hiệu của đèn đầu tiên (điểm từ anod của đèn qua tụ liên lạc, nếu sơ hư osciloscope, có thể nối tiếp thêm tụ .1µF để đo những điểm có điện thế cao) đến lưới khiển của đèn kế tiếp, cho đến đèn cuối cùng, chỗ nào tín hiệu sine bắt đầu méo là tầng trước đó bị hư hỏng. Bạn theo sơ đồ kiểm tra mạch điện, linh kiện cho thật đúng. Điện thế ghi trên sơ đồ cho phép gia giảm với dung sai 20%. Đôi khi có xuất hiện xung cao tần cực đại trên osciloscope. Bạn dò trên sơ đồ, nếu mạch điện của bạn có đường dẫn từ ngã ra loa về đèn pre, có thể mạch của bạn đang bị hồi tiếp (feedback) nghịch. Bạn chỉ cần tráo đổi hai chấu bìa cuộn sơ cấp của OPT dẫn sang anod đèn công suất, chấu này sang chấu kia là hết.

Bạn nào ráp amp stereo thì sau khi xong, tháo đèn ra cắm sang channel bên kia, thao tác cũng như vậy. Nếu xong toàn bộ, có thể cắm tất cả đèn của 2 bên vào và sang bước kế tiếp. Nhớ cài loa hay trở cho cả hai bên nhé. Phải luôn luôn nhớ rằng, nếu đã cắm đèn công suất thì bắt buộc OPT phải có tải, trở hay loa, nếu không khi có tìn hiệu sẽ nhảy lửa OPT cấp kỳ trong tích tắc.

6/ Bây giờ đến phần đo cường độ tổng của hệ thống. Không như amp bán dẫn, cường độ chỉ tăng theo chế độ hoạt động, tube amp khi đứng nghỉ vẫn ăn dòng, khi có tín hiệu tối đa chỉ tăng không quá 20%. Bạn có thể đo cường độ tiêu thụ của đèn khi đứng nghỉ bằng cách:

Dùng đồng hồ đo mA, thang khoảng 500mA, đầu cộng que đo kẹp vào điểm nguồn chính (tụ lọc nguồn đầu tiên). Điểm này sẽ trùng với 1 trong 2 chấu của công tắc standby cho nên bạn kẹp vào công tắc là tiện nhất. Bật điện nguồn, chờ tim đèn nóng đều, trỏ que đo đầu trừ vào chấu công tắc standby còn lại, trên đồng hồ sẽ hiển thị cường độ tiêu thụ điện năng của tất cả bóng đèn đang hoạt động, tính bằng mA.

Tùy theo sơ đồ bạn đang ráp, dùng loại đèn công suất nào, bạn tra tài liệu tìm đặc tính của đèn. Bạn cộng tất cả cường độ của đèn đang hoạt động sẽ ra thông số sẽ cộng. Đèn pre-amp tiêu thụ dòng rất nhỏ, 2, 3 mA có thể không cần tính đến. So sánh với cường độ bạn vừa đo được, bạn sẽ biết được amp của bạn hoạt động mạnh hay yếu để tùy nghi chỉnh lại. Những thông số này trên sách vở cũng đúng tương đối thôi, còn phải do kinh nghiệm hiểu được loại đèn nào nữa (một tên đèn, khi hoạt động khác biệt nhau khá nhiều: hãng, nước sản xuất, ký hiệu như GA, GB, GC v.v). Thí dụ theo kinh nghiệm của tôi, 1 bóng 6L6GC của Mỹ hoạt động tốt khi cường độ vào khoảng từ 40mA đến 60mA. Thông thường 1 amp có 4 đèn công suất, như vậy dùng biến thế nguồn khoảng 250mA là vùa đủ, lớn hơn thì càng tốt. Dĩ nhiên, khi cho đèn chạy mạnh thì tiếng ra sẽ tốt nhất, nhưng lại nóng đèn, giảm tuổi thọ của đèn đáng kể, và ngược lại. Tùy thích bạn có thể chỉnh lại cường độ tiêu thụ bằng cách sau:

Nếu mạch điện của bạn ráp có phần điện thế âm phân cực (bias volt) cho lưới khiển đèn, thì chỉnh rất dễ. Bạn chỉ cần thay đổi điện thế này, nâng lên thì cường độ sẽ giảm, giảm đi thì cường độ sẽ tăng. Khi chỉnh biến trở bias này, bạn theo dõi đồng hồ mA sẽ hiện kết quả. Cũng có những sơ đồ có nhiều biến trở chỉnh volt bias cho từng đèn công suất một, nhưng bao giờ cũng có 1 biến trở chỉnh điện thế chung cho các biến trở khác. bạn nên chỉnh biến trở chung này thôi, chỉnh riêng từng đèn cần những thiết bị đo lường cao cấp, nên những biến trở riêng này bạn set vào 1 vị trí cố định giống hệt nhau là xong.Chỉnh quá mạnh hay chất lượng bóng đèn bị yếu sẽ có hiện tượng đèn đỏ plate (anode), để lâu nóng sẽ nổ đèn, chưa nói tới biến thế sẽ nóng vì quá tải.


Nếu mạch điện của bạn ráp không có phần điện thế âm phân cực này thì khó hơn 1 chút. Bạn thay đổi trị số điện trở phân cực ở chân cathode nối xuống mass của từng đèn một. Điện trở càng nhỏ thì đèn chạy càng mạnh, càng cao thì càng yếu. Một số sơ đồ không có điện trở này, muốn yếu đi thì bạn phải thêm điện trở vào, nhưng muốn mạnh hơn thì chỉ còn cách là tăng điện thế nguồn cung cấp cho anod.


7/ Cuối cùng là phần đo công suất của amp. Bạn gắn thiết bị đo như bước 5, thêm đồng hồ có thang đo 50VAC mắc song song với osciloscope. Khởi động amp, vặn biến trở âm lượng lên, theo dõi hình sine trên osciloscope. Khi hai đỉnh của hình sine bắt đầu chớm bị méo (bị cắt cụt đầu), bạn vặn nhẹ biến trở về 1 chút sao cho hình sine vẫn còn tròn trĩnh. Đọc điện thế VAC trên đồng hồ và tính ra công suất theo công thức sau:

P = U2 / Z. với U là điện thế AC bạn vừa đo được, Z là số ohm của điện trở tải.

Thí dụ bạn đo được 10 VAC, tải bằng trở 8Ω thì công suất cực đại amp của bạn sẽ là P = 102 / 8 = 12,5 watts.

Công suất này mới chỉ là công suất danh định. Muốn tính công suất thực RMS (Root Mean Square) bạn còn phải nhân với hệ số 0.775 nữa. Kết quả thông số công suất thực của thí dụ trên có tên gọi là:

9,7 watts RMS at 8 Ohm / 1kHz.

Một amp công suất mạnh chưa chắc đã ra tiếng hay, nhưng một amp đã đạt được công suất thiết kế của schematic chắc chắn sẽ có chất lượng tương đối khá.

Các bạn còn có thể ứng dụng cách đo này khi thay đổi tần số input từ thấp 40Hz => 18kHz với 1 biên độ âm lượng nhất định. Bạn đo điện thế ngã ra theo từng tần số sẽ vẽ được đường đồ thị đáp tần, việc này hữu ích khi bạn ráp các amp khác, so sánh từng loại schematic với những loại đèn, kiểu ráp khác nhau, bạn sẽ tự mình tìm ra những kinh nghiệm trong thủ thuật lắp ráp tube-amplifier.

Đến đây tạm kết thúc mục đích của bài này, cân chỉnh tổng quát tube-amp. Bạn có thể gắn loa, cho tín hiệu nhạc vào để thưởng thức được rồi, chất lượng nghe sẽ tùy thuộc sơ đồ, loại đèn, linh kiện bạn đã ráp. Còn rất nhiều kỹ thuật như tinh chỉnh, thay đổi kết cấu của sơ đồ, tấn công vào phần âm sắc nữa. Nhưng muốn làm được vậy, phải có thêm những thiết bị đo lường cao cấp và kiến thức điện tử khá, nên tạm thời tôi xin dừng ở đây, hẹn bài viết khác. Còn nhiều điểm thiếu sót, các bạn có thể vào forum

để thảo luận tiếp.

Chúc các bạn DIY thành công.

Nguồn : Sound & Lighting VN